Lịch sử hoạt động USS_Enterprise_(CVN-65)

Enterprise được hạ thủy tại Xưởng tàu Newport News năm 1960.

Nhập biên chế và chạy thử máy

Enterprise được hạ thủy tại Xưởng tàu Newport News năm 1960.

Enterprise được đặt lườn vào ngày 4 tháng 2, 1958 trên đường trượt 11 tại xưởng đóng tàu Newport News Shipbuilding and Drydock Company. Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1960, được đỡ đầu bởi bà William B. Franke, phu nhân cựu Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ. Con tàu nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 11, 1961 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Vincent P. de Poix, người từng phục vụ cùng Liên đội Tiêm kích VF-6 trên tàu sân bay Enterprise (CV-6) tiền nhiệm.[31] Con tàu thực hiện chuyến hải hành đầu tiên vào ngày 12 tháng 1, 1962 để thực hiện thử máy trong ba tháng, đồng thời tiến hành một loạt các thử nghiệm và thực hành huấn luyện nhằm xác định mọi khả năng của một siêu hàng không mẫu hạm chạy năng lượng nguyên tử.[32]

1961 - 1969

Vào ngày 20 tháng 2, 1962, Enterprise phục vụ như trạm quan trắc và đo lường phục vụ cho chuyến bay Friendship 7 thuộc Chương trình Mercury, lần đầu tiên đưa một người Mỹ, Trung tá John H. Glenn, Jr., lên quỹ đạo quanh trái đất. Sang tháng 8, nó gia nhập cùng Đệ Lục hạm đội để hoạt động tại vùng biển Địa Trung Hải, rồi quay trở về Norfolk, Virginia vào tháng 10.[32]

Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962

Những chiếc Sea Vixen thuộc Phi đội Không lực 893 Hải quân Hoàng gia Anh đang hoạt động trên Enterprise, năm 1962.

Vào tháng 10, 1962, lần đầu tiên Enterprise được phái đi làm nhiệm vụ trong một sự kiện khủng hoảng quốc tế. Sau khi khám phá ra Liên Xô xây dựng các trận địa bố trí tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn nguyên tử tại Cuba, khiến đưa đến vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba, Tổng thống John F. Kennedy ra lệnh tập trung lực lượng, và đến ngày 22 tháng 10 bắt đầu “cô lập” hàng hải hòn đảo Trung Mỹ này[Note 2] nhằm ngăn chặn việc vận chuyển thiết bị quân sự đến Cuba, và gây áp lực đòi hỏi phía Liên Xô tháo dỡ các tên lửa này. Năm tàu sân bay đã được huy động vào lực lượng hải quân phong tỏa hàng hải chung quanh Cuba, bao gồm Enterprise (trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 135), Independence (CV-62), Essex (CV-9), Lake Champlain (CV-39)Randolph (CV-15), được máy bay đặt căn cứ trên đất liền hỗ trợ. Đến ngày 28 tháng 10, vụ khủng hoảng được giải quyết theo con đường thương lượng hòa bình, sau khi Liên Xô công khai việc tháo dỡ các tên lửa khỏi Cuba và Hoa Kỳ bí mật đồng ý rút bỏ những tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-19 Jubiter khỏi ÝThổ Nhĩ Kỳ.[32]

Lượt hoạt động Địa Trung Hải thứ hai và thứ ba

Lực lượng Đặc nhiệm 1, lực lượng đặc nhiệm tàu nguyên tử đầu tiên, bao gồm: Enterprise, Long BeachBainbridge trong đội hình tại Địa Trung Hải, ngày 18 tháng 6, 1964. Thủy thủ của Enterprise đang xếp chữ công thức tương đương khối lượng-năng lượng E=mc² của Einstein trên sàn đáp. Lưu ý kiểu dáng ăn-ten radar mảng pha đặc trưng trên cấu trúc thượng tầng của Enterprise và Long Beach.

Vào ngày 19 tháng 12, 1962, một máy bay trinh sát Grumman E-2 Hawkeye đã được Enterprise phóng lên lần đầu tiên trong khuôn khổ cuộc thử nghiệm kiểu thang phóng gá vào bánh đáp mũi thay cho kiểu dây cột.[33] Vài phút sau đó, thiết bị cũng được thử nghiệm để phóng lên một máy bay cường kích Grumman A-6A Intruder. Lợi điểm trong việc áp dụng thiết bị mới này là sẽ rút ngắn thời gian cần chuẩn bị giữa hai lần phóng.[34]

Trong giai đoạn 1963-1964, Enterprise thực hiện lượt biệt phái thứ hai và thứ ba sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại vùng biển Địa Trung Hải. Trong chuyến đi thứ ba, nó tham gia Chiến dịch Sea Orbit, lực lượng đặc nhiệm chạy toàn bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới, bao gồm các tàu tuần dương Long Beach (CGN-9)Bainbridge (CGN-25), tất cả hình thành nên một đoàn tàu thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới. Trong quá trình di chuyển vào ngày 25 tháng 2, 1964, một thủy thủ trên chiếc tàu buôn Phần Lan Verna Paulin bị chấn thương do té ngã trong khi con tàu đang ở khu vực phụ cận vịnh Souda, Hy Lạp. Chiếc tàu sân bay đã đáp trả lời kêu gọi cấp cứu khi cử một bác sĩ phẩu thuật đi sang Verna Paulin bằng máy bay trực thăng. Đến tháng 10, 1964, nó về đến xưởng tàu Newport News cho đợt đại tu và tái nạp năng lượng đầu tiên.[32]

Những lượt hoạt động tại Việt Nam

Vào tháng 11, 1965, Enterprise được điều động sang Đệ Thất hạm đội và đặt cảng nhà tại NAS Alameda, California. Đến ngày 2 tháng 12, nó trở thành chiếc tàu sân bay hạt nhân đầu tiên tham gia tác chiến khi tung ra những phi vụ ném bom xuống vị trí của Việt Cộng gần thành phố Biên Hòa, trực tiếp tham gia vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Nó dẫn đầu Đội tàu sân bay 3, bao gồm Enterprise (xếp lại lớp thành CVAN-65) với Không đoàn Tàu sân bay CVW-9 phối thuộc trên tàu, Bainbridge (DLGN-25); Barry (DD-933); và Samuel B. Roberts (DD-823). Chiếc tàu sân bay tung ra 125 phi vụ không kích trong ngày hoạt động đầu tiên, thả 167 tấn thiếu (151 t) bom và rocket xuống các tuyến đường tiếp vận của đối phương. Vào ngày 3 tháng 12, nó lập một kỷ lục mới khi tung ra 165 phi vụ tấn công chỉ trong một ngày.[32]

Vào ngày 13 tháng 12, 1965, Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam Henry Cabot Lodge, Jr. tháp tùng một đoàn đại biểu chính quyền Nam Việt Nam, bao gồm Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (đứng đầu nhà nước), và Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thủ tướng) cùng các tướng lãnh khác, để viếng thăm Enterprise. Trong dịp này Trung tướng Thiệu đã ghi cảm tưởng của mình lên một quả bom sắp được ném xuống lãnh thổ đối phương.[32]

Sang tháng 1, 1966, Enterprise tiếp tục phục vụ trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 77 tại vịnh Bắc Bộ, đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Chuẩn đô đốc Henry L. Miller, Tư lệnh Đội tàu sân bay 3.[35] Dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân James L. Holloway III là một thủy thủ đoàn gồm khoảng 350 sĩ quan và 4.800 thủy thủ. Không đoàn Tàu sân bay CVW-9 dưới quyền Trung tá Hải quân F. T. Brown gồm có bốn liên đội đặt căn cứ tại vùng bờ Tây: Liên đội Tiêm kích VF-92 do Trung tá Hải quân E. A. Rawsthorne chỉ huy và Liên đội Tiêm kích VF-96 do Trung tá Hải quân R. D. Norman chỉ huy lái những chiếc F-4B Phantom II; Liên đội Cường kích VA-93 do Trung tá Hải quân A. J. Monger chỉ huy và Liên đội Cường kích VA-94 do Trung tá Hải quân O. E. Krueger chỉ huy lái những chiếc A-4C Skyhawk. Ngoài ra còn có ba liên đội khác đặt căn cứ tại vùng bờ Đông: Liên đội Cường kích VA-36 do Trung tá Hải quân J. E. Marshall chỉ huy và Liên đội Cường kích VA-76 do Trung tá Hải quân J. B. Linder chỉ huy lái những chiếc A-4C Skyhawk; và Liên đội Trinh sát Tấn công RVAH-7 do Trung tá Hải quân K. Enny chỉ huy lái những chiếc RA-5C Vigilante. Vai trò Tư lệnh Đội tàu sân bay 3 được Chuẩn đô đốc Miller bàn giao cho Chuẩn đô đốc T. J. Walker vào ngày 16 tháng 2 trong một buổi lễ, khi đô đốc Miller trao tặng huân chương cho hơn 100 phi công và sĩ quan.[36]

Enterprise thả neo tại Căn cứ Hải quân vịnh Subic vào chiều tối ngày 8 tháng 12, 1966,[35] và lập tức được chất dỡ đạn dược và tiếp liệu cho việc hoạt động tại vùng chiến sự. Chuẩn đô đốc Walter L Curtis, Jr., Tư lệnh Đội tàu sân bay 9, đặt cờ hiệu của ông trên tàu; rồi cùng với các chiến hạm Manley (DD-940), Gridley (DLG-21)Bainbridge (DLGN-25), nó lên đường hướng sang Trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ vào ngày 15 tháng 12, đi đến vị trí tác chiến ba ngày sau đó.[36]

Khi rời vịnh Bắc Bộ vào ngày 20 tháng 6, 1967, phi công của Enterprise đã thực hiện trên 13.400 phi vụ tác chiến trong suốt 132 ngày hoạt động tại vùng chiến sự; con tàu đã di chuyển 67.630 dặm (108.840 km) khi phục vụ cùng Đệ Thất hạm đội. Nó đi đến căn cứ vịnh Subic, Philippines vào ngày 22 tháng 6, rồi lên đường vào ngày 25 tháng 6 cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ. Nó về đến Alameda vào ngày 6 tháng 7.[36]

Thủy thủ của Enterprise đang nỗ lực dập tắt một đám cháy lớn do rocket Zuni gây ra, ngày 14 tháng 1, 1969.

Enterprise được đại tu trong xưởng tàu tại Alameda; cũng trong thời gian này Đại tá Hải quân Kent Lee thay phiên cho Đại tá Holloway đảm nhiệm chỉ huy con tàu trong một buổi lễ vào ngày 11 tháng 7, 1967. Công việc trong xưởng tàu kết thúc vào ngày 5 tháng 9, và sau khi hoàn tất việc chạy thử máy vào ngày 7 tháng 9, nó rời vịnh San Francisco để đi San Diego, đón trở lại tàu Không đoàn Tàu sân bay CVW-9 và chuẩn bị cho hoạt động huấn luyện ôn tập tại vùng biển ngoài khơi Nam California.[36]

Trong khi Enterprise đang viếng thăm Sasebo, Nhật Bản vào tháng 1, 1968, một vụ khủng hoảng nổ ra khi tàu tình báo Hoa Kỳ USS Pueblo (AGER-2) bị phía Bắc Triều Tiên bắt giữ trong vùng biển thuộc hải phận quốc tế. Chiếc tàu sân bay đảm nhận vai trò soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 71 dưới quyền Chuẩn đô đốc Epes, vốn được thành lập để phản ứng lại vụ khủng hoảng. Khi tình hình căng thẳng được dàn xếp qua con đường thương lượng ngoại giao, nó cùng các tàu hộ tống quay trở lại Trạm Yankee vào ngày 16 tháng 2. Cho đến khi nó quay trở về Alameda vào ngày 18 tháng 7, con tàu đã thực hiện 12.839 lượt phóng máy bay để tiến hành 12.246 phi vụ, trong số đó có 9.182 phi vụ tác chiến. Sau một đợt đại tu ngắn tại Xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington từ ngày 29 tháng 7 đến ngày 26 tháng 9, con tàu quay trở lại để chuẩn bị cho lượt hoạt động tiếp theo tại Viễn Đông.[36]

Vụ hỏa hoạn năm 1969

Thủy thủ từ tàu khu trục Rogers đang dùng vòi nước trợ giúp những nỗ lực dập lửa trên Enterprise.

Vào sáng ngày 14 tháng 1, 1969, đang khi được hộ tống bởi các tàu khu trục Benjamin Stoddert (DDG-22)Rogers (DD-876), rocket MK-32 Zuni gắn trên một máy bay F-4 Phantom đậu trên sàn đáp đã kích nổ do nung nóng bởi quá nhiệt từ động cơ máy bay lân cận đang khởi động.[37] Vụ nổ đã kích hoạt một loạt các vụ nổ khác và đám cháy khắp sàn tàu.[36]

So với các tai nạn khác trên tàu sân bay tương tự, vụ hỏa hoạn được kiểm soát tương đối nhanh, nhưng 27 thủy thủ đã thiệt mạng và 314 người khác bị thương. Vụ hỏa hoạn đã phá hủy 15 máy bay, và chiếc tàu sân bay bị buộc phải quay trở về Xưởng hải quân Trân Châu Cảng để sửa chữa, chủ yếu là sửa chữa sàn đáp.[38] Việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 1 tháng 3, và Enterprise quay trở lại hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương.[36]

Vụ hỏa hoạn trên Enterprise, nhìn từ phía đuôi tàu, tháng 1 năm 1969

Các hoạt động tại Triều Tiên

Vào tháng 1, 1968, sự kiện các tàu tuần tra Bắc Triều Tiên bắt giữ chiếc tàu do thám tình báo USS Pueblo (AGER-2) tại vùng hải phận quốc tế đã dấy nên một cuộc khủng hoảng ngoại giao. Enterprise đã được huy động để hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Nam Triều Tiên trong gần một tháng.[36]

Quan hệ với Bắc Triều Tiên lại căng thẳng thêm một lần nữa vào ngày 14 tháng 4, 1969, khi một máy bay trinh sát Lockheed EC-121 Warning Star cất cánh từ căn cứ tại Atsugi, Nhật Bản bị Bắc Triều Tiên bắn rơi tại vị trí phía Đông biển Nhật Bản; toàn bộ 31 thành viên đội bay đều thiệt mạng. Phía Hoa Kỳ phản ứng lại bằng cách kích hoạt Lực lượng Đặc nhiệm 71 để bảo vệ các chuyến bay trinh sát tương lai trong hải phận quốc tế. Thoạt tiên lực lượng đặc nhiệm bao gồm các tàu sân bay Enterprise, Ticonderoga (CV-14), Ranger (CV-61)Hornet (CV-12) cùng một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục hộ tống, hầu hết được rút ra từ lực lượng đang làm nhiệm vụ tại Đông Nam Á. Enterprise gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 71 vào cuối tháng 4 sau khi hoàn tất việc sửa chữa; đợt tập trung lực lượng hạm đội này có quy mô lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc.[36]

Tổng cộng Enterprise đã có sáu lượt phục vụ hoạt động tại Đông Nam Á trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975.[36]

1970 - 1979

Vào năm 1969-1970, Enterprise quay trở lại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding để đại tu đồng thời tái trang bị lần thứ hai. Nó hoàn tất việc chạy thử máy sau đại tu vào tháng 1, 1971 với những lỏi lò phản ứng hạt nhân được thiết kế mới có đủ năng lượng để hoạt động trong vòng mười năm tiếp theo. Chiếc tàu sân bay lên đường để đi sang hoạt động tại khu vực Đông Nam Á ngoài khơi Việt Nam.[39]

Nam Á và Đông Nam Á

Enterprise đang được tiếp tế trên đường đi từ tàu chở dầu hạm đội Hassayampa tại biển Đông, năm 1973.

Tại Việt Nam, Enterprise, Oriskany (CV-34)Midway (CV-41) đã tung ra tổng cộng 2.001 phi vụ cho đến ngày 30 tháng 7, 1971. Các hoạt động không kích bị ngắt quãng trong tháng 7, khi các tàu sân bay phải cơ động di chuyển để né tránh các cơn bão: Harriet, KimJean. Cường độ các cuộc không kích gia tăng trong tháng tiếp theo, chủ yếu nhắm vào các vị trí tập trung quân đối phương và hỗ trợ cho hoạt động của máy bay trực thăng. Từ tháng 8 đến tháng 11, con tàu hoạt động tại Trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ.[39]

Vào tháng 12, 1971, Enterprise được phái sang vịnh Bengal vào lúc nổ ra xung đột giữa Ấn ĐộPakistan trong bối cảnh cuộc Chiến tranh giải phóng Bangladesh. Hoa Kỳ đang ủng hộ cho đồng minh Pakistan trong mâu thuẫn này, nhưng không can dự trực tiếp vào cuộc xung đột; và việc gửi chiếc tàu sân bay sang Ấn Độ Dương chỉ mang tính cách tượng trưng, ngăn ngừa cuộc xung đột leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn cầu.[39][40] Liên Xô cũng phản ứng lại bằng cách gửi tàu ngầm và tàu chiến xuất phát từ cảng Vladivostok để theo dõi hoạt động của Lực lượng Đặc nhiệm 74 cho đến tháng 1, 1972.[41][42][43]

Từ ngày 18 tháng 12, 1972, nhằm gây sức ép lên đối phương trong cuộc đàm phán hòa bình tại Paris, Hoa Kỳ tái tục việc ném bom về phía Bắc vĩ tuyến 20 tại Bắc Việt Nam trong khuôn khổ Chiến dịch Linebacker II. Enterprise và các tàu sân bay khác tiến hành thả thủy lôi phong tỏa Hải Phòng và các cảng biển khác, đồng thời tập trung đánh phá các điểm bố trí tên lửa đất đối không và pháo phòng không, doanh trại và kho xăng dầu đối phương, các xưởng tàu và các ga đầu mối đường sắt. Các phi vụ tấn công chiến thuật của hải quân trong khuôn khổ Chiến dịch Linebacker II, tổng cộng 705 phi vụ, chủ yếu tập trung tại vùng duyên hải chung quanh Hà Nội và Hải Phòng, trong đó riêng Enterprise từ ngày 18 tháng 12 ngày 22 tháng 12 đã thực hiện 119 phi vụ, bị giới hạn rất nhiều do hoàn cảnh thời tiết xấu.[39]

Xung đột chấm dứt vào tháng 1, 1973 sau khi các bên đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong Hiệp định Paris 1973. Từ ngày 28 tháng 1, theo yêu cầu trợ giúp của Chính phủ Hoàng gia Lào, máy bay của Enterprise và Ranger (CV-61) đã thực hiện 81 phi vụ nhắm vào mục tiêu các tuyến đường giao thông vận chuyển vũ khí tại Lào. Hành lang dành cho những phi vụ này ngang qua Nam Việt Nam giữa HuếĐà Nẵng, phía Lào không có liên quan gì đến thỏa thuận ngừng bắn tại Việt Nam.[39]

Sau Chiến tranh Việt Nam

Sau khi rời vùng biển Đông Nam Á vào năm 1973, quay trở về Hoa Kỳ và đi vào Xưởng hải quân Puget Sound tại Bremerton, Washington, nơi con tàu được sửa chữa và nâng cấp để có thể vận hành kiểu máy bay chiến đấu mới của hải quân Grumman F-14 Tomcat. Hai trong số bốn tấm che chắn luồng hơi phản lực được mở rộng để sử dụng được cho chiếc "mèo đực", đồng thời trục chân vịt số 4 cũng được thay thế; nó đã bị cong trong một tai nạn khi chân vịt bị cuốn vào một dây cáp hãm bị đứt. Vào ngày 18 tháng 3, 1974, những chiếc F-14 đầu tiên thuộc các liên đội VF-1 "Wolfpack" và VF-2 "Bounty Hunters" hạ cánh và cất cánh lần đầu tiên trên Enterprise. Sang tháng 9, nó trở thành chiếc tàu sân bay đầu tiên được biệt phái phục vụ với kiểu máy bay mới, khi nó khởi hành cho lượt hoạt động thứ bảy tại khu vực Tây Thái Bình Dương.[39]

Vào tháng 2, 1975, cơn bão Gervaise đã tàn phá đảo quốc Mauritius, nên Enterprise được phái đi hỗ trợ khắc phục hậu quả của thiên tai. Sau khi đi đến Port Louis, thủy thủ đoàn con tàu đã dành ra hơn 10.000 giờ công để giúp phục hồi các hệ thống cấp nước, điện và điện thoại, dọn dẹp chướng ngại vật trên đường phố, cung cấp nước uống, thực phẩm và thuốc men đến các khu vực bị cơn bão tàn phá.[39]

Chiến dịch Frequent Wind

Enterprise trên đường quay trở về Hoa Kỳ sau khi tham gia Chiến dịch Frequent Wind; phần trước của sàn đáp chứa một số máy bay trực thăng CH-53 Sea Stallion của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ.

Vào tháng 4, 1975, sau khi quân đội phía Bắc Việt Nam vi phạm thỏa thuận ngừng bắn tấn công vào những lãnh thổ còn lại của Nam Việt Nam,các tàu sân bay Enterprise, Midway, Coral Sea (CV-43), Hancock (CV-19)tàu tấn công đổ bộ Okinawa (LPH-3) được phái đến vùng biển ngoài khơi Việt Nam dự phòng cho việc cần thiết phải di tản. Chiến dịch Frequent Wind (gió lốc) được máy bay trực thăng của Hải quân và Thủy quân Lục chiến thuộc Đệ Thất hạm đội tiến hành từ ngày 29 tháng 4. Hoạt động này nhằm giúp di tản những công dân Hoa Kỳ và những người Việt Nam "gặp nguy cơ" khỏi Sài Gòn, thủ đô của Nam Việt Nam, vốn đang chịu đựng sự tấn công bao vây của đối phương.[39]

Tổng thống Gerald Ford đã ra lệnh tiến hành cuộc di tản bằng máy bay trực thăng sau khi lực lượng Cộng sản bắt đầu bắn pháo vào sân bay Tân Sơn Nhất khiến cho việc di tản bằng máy bay cánh cố định bị đình trệ. Được máy bay tiêm kích từ các tàu sân bay bảo vệ, máy bay trực thăng đã hạ cánh xuống Đại sứ quán MỹVăn phòng Tùy viên DAO để bốc những người di tản. Chiếc máy bay trực thăng cuối cùng rời khỏi đại sứ quán lúc 07 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4, chở theo mười một lính Thủy quân Lục chiến làm nhiệm vụ bảo vệ đại sứ quán. Trong suốt Chiến dịch Frequent Wind, Enterprise đã thực hiện tổng cộng 95 phi vụ.[39]

Lượt bố trí thứ tám và thứ chín tại Viễn Đông

Vào tháng 7, 1976 Enterprise lên đường cho lượt phục vụ thứ tám tại vùng biển Tây Thái Bình Dương. Sang đầu tháng 10, nó tham gia cuộc tập trận "Kangaroo II" của Khối ANZUS phối hợp cùng Hải quân Hoàng gia AustraliaHải quân Hoàng gia New Zealand. Với sự tham gia của 40 tàu chiến và 250 máy bay, cuộc tập trận đã kéo dài trong 17 ngày.[44] Kết thúc cuộc tập trận, con tàu đã viếng thăm Hobart, Tasmania trong tháng 11, trở thành chiếc tàu chiến Hoa Kỳ đầu tiên thả neo tại cảng Hobart kể từ đầu thập niên 1920.[45]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: USS_Enterprise_(CVN-65) http://www.bharat-rakshak.com/NAVY/History/1971War... http://science-naturalphenomena.blogspot.com/2011/... http://www.cnn.com/2014/10/03/us/navy-carrier-anch... http://www.defpro.com/news/details/10424/ http://www.facebook.com/USS.Enterprise.CVN.65 http://www.foxnews.com/us/2012/03/10/worlds-first-... http://www.history.com/this-day-in-history/explosi... http://www.maritimequest.com/warship_directory/us_... http://www.measuringworth.com/datasets/usgdp/ http://www.military-today.com/navy/enterprise.htm